Có thể thấy, việc trợ giúp pháp lý là một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước dành cho những người không có khả năng sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí, theo đó người nghèo, người yếu thế trong xã hội được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam luôn xem công tác trợ giúp pháp lý góp phần giúp người dân giảm nghèo về pháp luật, do đó, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2017 đều xác định người nghèo là nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên trong các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý…
Cụ thể, vào sáng ngày 20/09/2025, tại số 414, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận, TP.HCM. Viện IMRIC phối hợp Viện IRLIE; TC DN&TTVN giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi tham vấn, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến. Đồng thời, truyền tải nội dung trên các trang tin điện tử, mạng xã hội, tạp chí in như: www.huongnghiepthitruong.vn (Viện IMRIC); www.chinhsachphapluat.vn (Viện IRLIE); www.tuvanphapluatvietnam.vn (Trung tâm TVPLMS); www.thamvanphapluat.vn (Trung tâm TTLCC); www.nghiencuupldautu.vn và www.phattrienspcongnghe.vn (Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam “AVRCIPL”); www.bestlife.net.vn; www.doanhnghiepnongnghiep.vn (liên kết Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam); www.vanhoacongdong.vn (Hiệp hội Phát triển Văn hoá cộng đồng Việt Nam)…
Như vậy, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương, Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm về công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế được triển khai đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc và được thực hiện thường xuyên, trong đó chú trọng các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người yếu thế như: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở; nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý…
Cùng với đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý được Viện IMRIC; Viện IRLIE; TC DN&TTVN và Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm tuyên truyền về các vụ việc trợ giúp pháp lý, với mong muốn ngày càng được nâng cao, nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân…Đặc biệt, trongsuốt thời gian qua trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo việc xét xử vụ việc khách quan, đúng người, đúng tội, tránh được oan sai cho người dân cũng như đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý đã giúp người dân sử dụng pháp luật khi có tranh chấp, vướng mắc, giúp người dân “giảm nghèo về pháp luật”, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, người dân yên tâm lao động để giảm nghèo về kinh tế…
Tại buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí lần này, các luật gia, luật sư, tư vấn viên, cọng tác viên tư vấn pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã tham vấn về hai trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất: Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Luật Tư pháp người chưa thành niên đã cải cách chính sách hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội? Những quy định cụ thể về hình phạt tù có thời hạn?
Qua tham chiếu Luật Tư pháp người chưa thành niên đã được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 8, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.
Tại Điều 115, Luật Tư pháp người chưa thành niên quy định, người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Tù có thời hạn.
Tại Điều 119 của Luật quy định mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: Khoản 2 – đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần năm mức phạt tù mà điều luật củaBộ luật Hình sự quy định, trừ trường hợp quy định; Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sư åđược áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định khi phạm một trong các tội sau đây: Tội giết người; Tội hiếp dâm; Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội sản xuất trái phép chất ma túy.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 9 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá hai phần năm mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định khi phạm một trong các tội sau đây: Tội giết người; Tội hiếp dâm; Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội sản xuất trái phép chất ma túy.
Trường hợp thứ hai: Gây tai nạn chết người phải bồi thường bao nhiêu tiền?
Căn cứ vào Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật quy định khác.
Căn cứ theo Điều 591 Bộ luật Dân sự 2015, nếu phía bên gây tai nạn được xác định có lỗi (ví dụ, không chú ý quan sát, vi phạm quy định về an toàn giao thông), họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điển hình, có 03 khoản bồi thường có thể tham khảo:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, mai táng: Bao gồm tiền thuê phương tiện đưa người bị nạn đi cấp cứu, tiền thuốc, chi phí y tế, chi phí mua quan tài, khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang, và các chi phí phục vụ việc chôn cất hoặc hỏa táng theo phong tục địa phương.
Tiền cấp dưỡng: Tại Điều 591 khoản 2 Bộ luật Dân sự 2015 – nếu người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác (ví dụ, con cái, cha mẹ già yếu), bên gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho những người này. Mức cấp dưỡng được xác định dựa trên thu nhập thực tế của người bị thiệt hại hoặc mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nếu thu nhập không ổn định.
Tiền bù đắp tổn thất tinh thần: Mức bồi thường này do các bên thỏa thuận, nhưng nếu không thỏa thuận được, mức tối đa không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (hiện tại, mức lương cơ sở từ ngày 1/7/2024 là 2,34 triệu đồng, tức tối đa khoảng 234 triệu đồng). Khoản này được trả cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại (cha mẹ, vợ/chồng, con cái) hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng/người được người bị thiệt hại nuôi dưỡng.
Xin khuyến nghị, người tham gia giao thông cần biết rằng họ phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Bảo hiểm này có trách nhiệm chi trả một phần hoặc toàn bộ các khoản bồi thường, tùy theo mức độ thiệt hại.
Vì vậy, việc xác định số tiền bồi thường khi gây tai nạn chết người là rất phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Người gây tai nạn cần nắm rõ các quy định pháp lý và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình nhằm giảm thiểu thiệt hại tài chính cũng như đảm bảo quyền lợi cho nạn nhân và gia đình họ. Khi gặp tình huống khó khăn, người gây tai nạn nên tìm đến sự tư vấn của luật sư để được hỗ trợ chi tiết và chuyên nghiệp.
Viện trưởng Viện IMRIC, Gs.Ts. Hồ Minh Sơn – Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm