Có thể thấy, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành pháp luật, là cầu nối để truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân.
Vì vậy, Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (TC DN&TTVN) giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tiếp tục tổ chức buổi tham vấn pháp lý bằng hình thức trực tuyến và trực tiếp cho các doanh nghiệp thành viên, các câu lạc bộ trực thuộc vào sáng ngày 12/06/2025. Nhằm tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật như là nhiệm vụ đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành pháp luật, là cầu nối để truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân. Do đó, nâng cao hiệu quả công tác tuyên tuyền phổ biến, giáo dục pháp luật để ý thức thượng tôn pháp luật trở thành sức mạnh động lực phát triển xã hội.
Thời gian qua, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Viện IMRIC; Viện IRLIE và TC DN&TTVN cùng Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đặc biệt chú trọng thực hiện với nhiều nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp, người dân, từ đó, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật. Qua đó, tuyên truyền các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với bà con nhân dân cũng như vận động người thân, bạn bè và khách đến quán tìm đọc, tham khảo các loại sách, báo để nâng cao hiểu biết, kiến thức pháp luật.
Có thể nói, phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Chỉ khi làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật mới giúp nâng cao nhận thức, ý thức để chấp hành pháp luật một cách tự giác, nghiêm minh, nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật. Vì vậy, việc tuyên truyền cần được thực hiện thường xuyên với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Có như vậy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật mới đạt được hiệu quả cao.
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) xin trích lược hai tình huống mà các luật gia, luật sư, các tư vấn viên pháp luật của trung tâm đã tham vấn miễn phí như sau:
Tình huống thứ nhất: Một người không đồng ý, bố mẹ có bán được đất, nhà không?
Doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Doanh nghiệp IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Có cách nào để sang tên đất cho bố mà không cần ý kiến của anh cả không? Nếu bố tôi kiện ra tòa, đất sẽ chia đều cho 4 người hay như thế nào?
Đầu tiên quý doanh nghiệp, cần xác định thời điểm mảnh đất được cấp sổ đỏ, vì quy định pháp luậtthay đổi tùy theo mốc thời gian. Có hai trường hợp:
Sổ đỏ được cấp trước khi Luật Đất đai 2024: Theo quy định cũ, hộ gia đình sử dụng đất bao gồm: các thành viên có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân, đang sống chung và có quyền sử dụng đất tại thời điểm được cấp sổ. Dù các con còn nhỏ khi ấy, vẫn được tính là đồng sở hữu nếu đủ điều kiện.Theo đó, tất cả các thành viên đều có quyền với mảnh đất, nên bất kỳ giao dịch nào cũng cần sự đồng thuận hoặc ủy quyền của tất cả
Nếu người anh không đồng ý, có hai hướng xử lý như sau: Thứ nhất, nếu mảnh đất đủ điều kiện tách thửa, có thể tách phần cho anh trai, sau đó bố mẹ sử dụng phần còn lại theo ý muốn. Thứ nhì, nếu không thể tách thửa hoặc không thỏa thuận được, phải khởi kiện ra tòa để phân chia tài sản chung.
Sổ đỏ được cấp sau khi Luật Đất đai 2024: Luật mới quy định: Nếu quyền sử dụng đất của nhóm người dùng chung có thể chia phần, thì từng người có thể làm thủ tục tách phần của mình ra. Nếu không chia phần được thì mọi hành động như sang tên, bán, chuyển nhượng đều phải có sự đồng thuận của toàn bộ các thành viên hoặc có văn bản ủy quyền. Do vậy, trường hợp anh trai bạn không đồng ý, gia đình không thể tự ý sang tên cho bố được.
Không thể thỏa thuận, Tòa án lối ra cuối cùng: Nếu buộc phải đưa ra tòa, thì tòa sẽ xem xét công sức đóng góp và các yếu tố liên quan để phân chia đất hợp lý giữa các thành viên. Sau khi tòa có quyết định phân chia rõ ràng, từng người có thể sang tên phần đất của mình. Dù chỉ một thành viên phản đối, bố mẹ bạn không thể tự ý sang tên đất hoặc chia theo ý muốn. Việc hòa giải, thỏa thuận vẫn là con đường tốt nhất. Nếu không thể, khởi kiện là giải pháp pháp lý cuối cùng, tuy nhiên sẽ mất thời gian và chi phí.
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm khuyến nghị: Trước khi đi đến bước pháp lý, gia đình nên tìm cách thuyết phục hoặc nhờ bên trung lập (người thân, luật sư, hòa giải viên) hỗ trợ để đạt được sự đồng thuận, tránh những rạn nứt không đáng có trong nội bộ.
Tình huống thứ hai: Không còn quốc tịch Việt Nam, có được hưởng thừa kế của cha mẹ?
Doanh nghiệp thành viên Viện IMRIC nêu câu hỏi: Trong trường hợp tôi không còn quốc tịch Việt Nam, liệu tôi có được hưởng thừa kế căn nhà do cha mẹ để lại hay không?
Căn cứ vào Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế, nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Tại Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2015: Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Do đó, chỉ cần bạn đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định trên, dù không còn quốc tịch Việt Nam, bạn vẫn có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật dân sự hiện hành. Tuy nhiên, bên cạnh quyền hưởng di sản, bạn cũng có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản mà cha mẹ để lại, trừ khi có thỏa thuận khác.
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm, xin khuyến nghị: Quyền hưởng thừa kế tài sản là nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất đối với người không còn quốc tịch Việt Nam có thể có một số khác biệt so với công dân Việt Nam.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 37 Luật Đất đai năm 2024: Trường hợp người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam, được hưởng thừa kế quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, cũng như các loại đất khác (nếu có) trong cùng thửa đất có nhà ở theo quy định pháp luật dân sự.
Trong trường hợp người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không được phép nhập cảnh vào Việt Nam, thì chỉ được hưởng giá trị của phần thừa kế, không được đứng tên sở hữu nhà, đất tại Việt Nam.
Tại khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là: “Người Việt Nam từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch được xác định theo nguyên tắc huyết thống, và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
Trong trường hợp của quý doanh nghiệp hỏi, tuy đã không còn quốc tịch Việt Nam, nhưng nếu quýdoanh nghiệp là người gốc Việt Nam và được phép nhập cảnh vào Việt Nam, vẫn được hưởng thừa kế tài sản là nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất và có thể đứng tên trên Giấy chứng nhận để cùng các anh chị em thực hiện quyền định đoạt tài sản.
Luật sư Phan Đức Hiếu – PGĐ Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm