Trong quá trình hoạt động, ngoài công tác chuyên môn, Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) phối hợp Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam; Tạp chí Văn hiến Việt Nam luôn xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần tập thực hiện, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục phát luật, phát huy vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Qua đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ngày càng đi vào chiều sâu, trọng tâm, thống nhất, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cụ thể, vào sáng ngày 16/08/2025, tại tại B-TT10-01, Khu nhà ở Ngân Hà Vạn Phúc, phường Hà Đông, Thành phố Hà Nội – Viện IMRIC; Viện IRLIE và TC DN&TTVN giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi PBGDPL cho độc giả, các doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) và Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) bằng hình thức trực tuyến và trực tiếp…
Với đội ngũ luật gia, luật sư, các báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật là lực lượng nòng cốt đi đầu, đưa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp Nhân dân, nên đội ngũ này thường xuyên được rà soát, củng cố, kiện toàn và hoạt động phát huy hiệu quả. Theo đó, các luật gia, luật sư, các báo cáo viên pháp luật công tác ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, có trình độ từ cử nhân trở lên, nhiều người trong số đó là thạc sỹ, tiến sỹ, chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật; báo cáo viên pháp luật thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng phổ biến pháp luật, kỹ năng biên soạn tài liệu, kỹ năng nói chuyện trước công chúng…nhờ đó hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện bài bản, khoa học, hiệu quả hơn.
Đồng thời, việc xây dựng, nhân rộng các mô hình điểm, có hiệu quả về PBGDPL được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm nghiên cứu thực hiện, lựa chọn những cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong công tác PBGDPL để thực hiện nhân rộng thực hiện, tổ chức biên tập và đăng tải chương trình sách nói pháp luật trên các trang mạng xã hội, trang tin điện tử trực thuộc như: www.bestlife.net.vn; www.huongnghiepthitruong.vn; www.chinhsachphapluat.vn; www.thamvanphapluat.vn; www.tuvanphapluatvietnam.vn; www.doanhnghiepnongnghiep.vn; www.nghiencuupldautu.vn; www.phattrienspcongnghe.vn và trên hai đặc san, Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (in), Tạp chí Văn hiến Việt Nam góp phần tuyên truyền đến với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có các Trường đặc biệt dành cho những người yếu thế;…
Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm, tập trung đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công nghệ thông tin vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới. Cạnh đó, góp phần triển khai nhanh chóng, chính xác, kịp thời các chủ trương, chính sách hỗ trợ của Đảng và pháp luật Nhà nước đến toàn thể Nhân dân và doanh nghiệp.
Tại đây, các luật gia, luật sư, tư vấn viên pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã phân tích 02 trường hợp cụ thể như sau:
Tình huống thứ nhất: Nên chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản trước hay sau ly hôn thuận tình
Thành viên Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE nêu băn khoăn: Vợ chồng tôi quyết định ly hôn thuận tình. Chúng tôi có một bé dưới 3 tuổi là con chung, tài sản có một căn nhà và chồng tôi đồng ý chuyển sổ từ hai vợ chồng sang đứng tên một mình tôi ở nuôi con. Không biết nên chuyển nhượng trước rồi làm thủ tục ly hôn hay làm sau khi ly hôn?.
Hiện nay, pháp luật đã quy định rất rõ về thủ tục ly hôn thuận tình, quyền nuôi con dưới 3 tuổi, và việc chuyển quyền sở hữu nhà ở từ hai vợ chồng sang một người.
Căn cứ theo Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thuận tình ly hôn là khi hai vợ chồng cùng đồng ý ly hôn và đã thỏa thuận được về việc chia tài sản, nuôi con. Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận nếu không vi phạm pháp luật và bảo đảm quyền lợi của con cái.
Tại khoản 3, Điều 81 của Luật này, người mẹ sẽ được ưu tiên trực tiếp nuôi con, trừ trường hợp không đủ điều kiện chăm sóc, hoặc có thỏa thuận khác phù hợp lợi ích của con.
Qua đó, việc chuyển quyền sở hữu căn nhà từ chung sang riêng trước hay sau khi ly hôn thuận tình đều không gặp vướng mắc pháp lý. Nếu hai bên đã thỏa thuận phân chia tài sản chung (cụ thể là căn nhà) và lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung, có công chứng hoặc chứng thực theo quy định, thì căn nhà sẽ trở thành tài sản riêng của người được nhận theo thỏa thuận, bất kể việc này thực hiện trước hay sau khi nộp đơn ly hôn thuận tình.
Trong đó, nếu người chồng từ chối nhận phần tài sản là căn nhà (tức là đồng ý để căn nhà thuộc về vợ), hai bên có thể lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc văn bản từ chối nhận tài sản, có công chứng/chứng thực. Khi đó, căn nhà sẽ thuộc sở hữu riêng của vợ.
Tại Điều 38 và 59 Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ chồng có quyền thỏa thuận phân chia tài sản chung bất cứ thời điểm nào, và Tòa án ưu tiên thỏa thuận này khi giải quyết ly hôn. Việc chuyển quyền sở hữu căn nhà từ chung sang riêng có thể thực hiện trước khi nộp đơn ly hôn (bằng văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân) hoặc thực hiện đồng thời/thực hiện sau khi Tòa án công nhận thuận tình ly hôn (bằng bản án/quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên về chia tài sản).
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) khuyến nghị: Mặc dù thực hiện trước hay sau, điều quan trọng là hai bên cần lập văn bản thỏa thuận rõ ràng, có công chứng, để thuận tiện trong thủ tục đăng ký biến động nhà đất tại Văn phòng đăng ký đất đai theo đúng quy định. Do đó, nếu chuyển nhượng trước khi ly hôn cần lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, có công chứng/chứng thực. Lúc này, căn nhà sẽ trở thành tài sản riêng của người được nhận. Chuyển nhượng sau ly hôn phải căn cứ vào quyết định công nhận thuận tình ly hôn của Tòa án có nêu rõ việc phân chia tài sản.
Tình huống thứ hai: Ông mất, chia tài sản thế nào khi di chúc không hợp lệ?
Thành viên Câu lạc bộ IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Ông tôi có để lại một tờ giấy chia tài sản đều cho 8 người con nhưng tờ giấy này không có chữ ký, cũng không ai làm chứng. Hiện bà tôi vẫn còn sống. Vậy tài sản của ông tôi sẽ được xử lý thế nào theo quy định pháp luật?
Với “lời nói” của ông quý doanh nghiệp khi còn sống “để lại tài sản chia cho 4 người con trai”, nếu đây chỉ là nói miệng, dù có người nghe, không được coi là di chúc hợp pháp, trừ trường hợp đặc biệt là di chúc miệng theo Điều 629 BLDS và đồng thời đáp ứng các điều kiện theo quy định.
Điển hình, chỉ lập trong tình thế tính mạng bị cái chết đe dọa và không thể lập bằng văn bản; Có ít nhất 2 người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên và trong vòng 5 ngày phải được công chứng hoặc chứng thực.
Theo đó, nếu những điều kiện này không được đáp ứng, lời nói đó không có giá trị pháp lý như di chúc.
Đối với “tờ giấy chia tài sản”, tại Điều 630 BLDS – nếu không có chữ ký (hoặc điểm chỉ) của ông bạn và không có người làm chứng theo luật, thì văn bản này không đáp ứng điều kiện về hình thức của di chúc bằng văn bản. Vậy nên, tờ giấy này không được coi là di chúc hợp pháp.
Tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình, do ông bà vủa quý doanh nhân là vợ chồng, nên tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân thường là tài sản chung, trừ khi có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng.
Khi ông mất của quý doanh nhân mất, thì 1/2 tài sản chung thuộc quyền sở hữu của bà (không phải di sản); 1/2 còn lại mới là di sản của ông để chia thừa kế.
Tại Điều 650 và 651 BLDS – phương thức chia thừa kế như sau, vì cả “lời nói” lẫn “tờ giấy” không hợp lệ xem như không có di chúc hợp pháp. Di sản sẽ được chia theo pháp luật.
Qua đó, hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật gồm: Vợ (bà bạn); Các con (8 người con); Cha mẹ của ông (nếu còn sống tại thời điểm ông mất). Nếu cha mẹ ông đã mất, thì hàng thừa kế thứ nhất gồm 1 người vợ và 8 người con.
Có thể hiểu, về nguyên tắc phân chia, mỗi người hưởng phần bằng nhau từ khối di sản (tức là từ 1/2 tài sản chung của vợ chồng).
Như vậy, “lời nói” chia tài sản cho 4 con trai và “tờ giấy” chia tài sản cho 8 người con không đủ điều kiện pháp lý để trở thành di chúc hợp pháp.
Do đó, tài sản sẽ chia theo pháp luật, tức là bà và 8 người con mỗi người hưởng phần bằng nhau từ di sản của ông (sau khi đã tách phần của bà trong khối tài sản chung).
Nếu các bên tự thỏa thuận khác (ví dụ đồng ý chia theo ý ông lúc sinh thời), thì có thể lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản và công chứng để thực hiện…
Viện trưởng Viện IMRIC, TS. Hồ Minh Sơn – Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC)