Trong quá trình hoạt động, ngoài công tác chuyên môn, Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) phối hợp Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC)luôn xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần tập thực hiện, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục phát luật, phát huy vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Qua đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ngày càng đi vào chiều sâu, trọng tâm, thống nhất, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cụ thể, vào sáng ngày 21/08/2025, tại tại B-TT10-01, Khu nhà ở Ngân Hà Vạn Phúc, phường Hà Đông, Thành phố Hà Nội – Viện IMRIC; Viện IRLIE giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi PBGDPL cho độc giả, các doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) và Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) bằng hình thức trực tuyến và trực tiếp…
Với đội ngũ luật gia, luật sư, các báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật là lực lượng nòng cốt đi đầu, đưa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp Nhân dân, nên đội ngũ này thường xuyên được rà soát, củng cố, kiện toàn và hoạt động phát huy hiệu quả. Theo đó, các luật gia, luật sư, các báo cáo viên pháp luật công tác ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, có trình độ từ cử nhân trở lên, nhiều người trong số đó là thạc sỹ, tiến sỹ, chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật; báo cáo viên pháp luật thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng phổ biến pháp luật, kỹ năng biên soạn tài liệu, kỹ năng nói chuyện trước công chúng…nhờ đó hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện bài bản, khoa học, hiệu quả hơn.
Đồng thời, việc xây dựng, nhân rộng các mô hình điểm, có hiệu quả về PBGDPL được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm nghiên cứu thực hiện, lựa chọn những cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong công tác PBGDPL để thực hiện nhân rộng thực hiện, tổ chức biên tập và đăng tải chương trình sách nói pháp luật trên các trang mạng xã hội, trang tin điện tử trực thuộc như: www.bestlife.net.vn; www.huongnghiepthitruong.vn; www.chinhsachphapluat.vn; www.thamvanphapluat.vn; www.tuvanphapluatvietnam.vn; www.doanhnghiepnongnghiep.vn; www.nghiencuupldautu.vn; www.phattrienspcongnghe.vn và trên hai đặc san, Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (in), Tạp chí Văn hiến Việt Nam góp phần tuyên truyền đến với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có các Trường đặc biệt dành cho những người yếu thế;…
Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm, tập trung đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công nghệ thông tin vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới. Cạnh đó, góp phần triển khai nhanh chóng, chính xác, kịp thời các chủ trương, chính sách hỗ trợ của Đảng và pháp luật Nhà nước đến toàn thể Nhân dân và doanh nghiệp.
Tại đây, các luật gia, luật sư, tư vấn viên pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã phân tích 02 trường hợp cụ thể như sau:
Tình huống thứ nhất: Người nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao lâu?
Thành viên CLB Doanh nhân IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Chồng tôi là người gốc Việt, định cư ở Mỹ hơn 20 năm. Tôi đã nhập quốc tịch Mỹ và thôi quốc tịch Việt Nam. Nay tôi muốn mua nhà ở Việt Nam thì cần những điều kiện gì?
Căn cứ vào quy định tại Mục 3 Luật Nhà ở 2023 thì người nước ngoài vẫn được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; tuy nhiên phải đáp ứng một số điều kiện nhất định.
Qua đó, cá nhân nước ngoài (người nước ngoài) được sở hữu nhà ở tại Việt Nam là người nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam; không thuộc trường hợp được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 17 của Luật Nhà ở 2023, người nước ngoài được sở hữu nhà ở trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ dự án thuộc khu vực cần bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Do đó, việc sở hữu bao gồm cả căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ thông qua các hình thức mua, thuê mua nhà ở thương mại của chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở không thuộc khu vực cần bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Mặt khác, người nước ngoài còn được sở hữu nhà ở thông qua mua, thuê mua nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài đã sở hữu nhà ở theo quy định trên.
Đối với số lượng nhà ở, người nước ngoài được sở hữu tại Việt Nam: Tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá 30% số lượng căn hộ trong một tòa nhà chung cư.
Nhà ở riêng lẻ bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề thì trên một khu vực có quy mô về dân số tương đương một phường chỉ được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá 250 căn nhà.
Trong trường hợp trong một khu vực có số dân tương đương một phường mà có nhiều nhà chung cư hoặc đối với nhà ở riêng lẻ trên một tuyến phố thì tổ chức, người nước ngoài được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá số lượng căn hộ, số lượng nhà ở riêng lẻ quy định ở trên.
Điển hình, người nước ngoài có quyền của chủ sở hữu đối với nhà ở như công dân Việt Nam nhưng phải tuân thủ các quy định sau đây: Chỉ được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu nhà ở theo đúng số lượng quy định và được cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở đó; Trường hợp người nước ngoài được tặng cho, được thừa kế nhà ở không thuộc trường hợp quy định hoặc vượt quá số lượng nhà ở quy định, hoặc thuộc khu vực cần bảo đảm quốc phòng, an ninh quy định thì chỉ được hưởng giá trị của nhà ở; Người nước ngoài được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận trong giao dịch mua bán, thuê mua, tặng cho, nhận thừa kế nhà ở nhưng không quá 50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và được gia hạn một lần với thời hạn không quá 50 năm nếu có nhu cầu; thời hạn sở hữu nhà ở phải được ghi rõ trong Giấy chứng nhận.
Trong trường hợp người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam thì được sở hữu nhà ở và có quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở như công dân Việt Nam. Người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì được sở hữu nhà ở và có quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở như người Việt Nam định cư ở nước ngoài…
Theo quy định của Luật Nhà ở 2023, chủ sở hữu có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện quyền tặng cho hoặc bán nhà ở này cho đối tượng thuộc trường hợp được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; nếu quá thời hạn được sở hữu nhà ở mà chủ sở hữu không bán, tặng cho thì nhà ở đó thuộc tài sản công.
Đối với chủ sở hữu là người nước ngoài thì được cho thuê nhà ở để sử dụng vào mục đích mà pháp luật không cấm nhưng trước khi cho thuê nhà ở, chủ sở hữu phải có văn bản thông báo về việc cho thuê nhà ở với cơ quan quản lý nhà ở có thẩm quyền theo quy định và phải nộp thuế từ hoạt động cho thuê nhà ở này theo quy định của pháp luật.
Vì vậy, việc thực hiện thanh toán tiền mua, thuê mua nhà ở thông qua tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Tình huống thứ hai: Người cho thuê nhà có doanh thu bao nhiêu thì phải nộp thuế?
Thành viên CLB Doanh nhân IMRIC – IRLIE nêu hỏi: Theo quy định, nếu doanh thu cho thuê nhà trên 100 triệu đồng/năm, người cho thuê nhà phải nộp những loại thuế nào, cách tính ra sao?
Căn cứ theo Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với cá nhân, hộ kinh doanh cho thuê nhà, văn phòng phải khai thuế theo từng lần phát sinh kỳ thanh toán (xác định theo thời điểm bắt đầu thời hạn cho thuê) hoặc khai thuế theo năm dương lịch.
Tại Điều 4 Nghị định 139/2016/NĐ-CP được bổ sung bởi Điều 1 Nghị định 22/2020/NĐ-CP: Cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình có doanh thu trên 500 triệu đồng/năm: nộp 1.000.000 đồng/năm; Cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình có doanh thu trên 300 đến 500 triệu đồng/năm: nộp 500.000 đồng/năm; Cá nhân, nhóm cá nhân, hộ gia đình có doanh thu trên 100 đến 300 triệu đồng/năm: 300.000 đồng/năm.
Đồng thời, người có tài sản là nhà đất cho thuê còn phải nộp thuế giá trị gia tăng nếu có doanh thu từ việc cho thuê nhà trên 100 triệu đồng/năm với mức thuế suất là 5% của doanh thu tính thuế giá trị gia tăng theo quy định.
Cạnh đó, người cho thuê nhà có thể phải nộp thuế thu nhập cá nhân nếu có doanh thu trong năm dương lịch trên 100 triệu đồng. Công thức tính thuế theo khoản 3 Điều 10 Thông tư 40/2021/TT-BTC.
Do đó, nếu doanh thu cho thuê nhà trên 100 triệu đồng/năm thì người cho thuê sẽ phải nộp cả 3 loại bao gồm lệ phí môn bài, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân. Trường hợp doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm thì không phải nộp những loại thuế này.
Người kê khai thiếu dẫn đến nộp thiếu thuế sẽ bị phạt 20% số tiền thiếu với mức phạt từ 2 – 25 triệu đồng, tùy thời gian và mức độ vi phạm với trường hợp không kê khai. Trường hợp số tiền trốn thuế lớn và hành vi có dấu hiệu hình sự, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khuyến nghị, để tránh những hậu quả đáng tiếc, cá nhân, hộ kinh doanh có hoạt động kinh doanh khách sạn, lưu trú thì cần tuân theo các qui định về kinh doanh ngành nghề, lĩnh vực này, tuân thủ nghiêm túc các quy định về thuế.
Giám đốc Chi nhánh số 1 (Đồng Nai), ThS.LS. Nguyễn Thành Hưng – PGĐ Trung tâm TTLCC