Thông thường các doanh nghiệp khi xảy ra vụ việc mới thuê dịch vụ pháp lý, do vậy thiệt hại trong kinh doanh là vô cùng lớn. Nhiều trường hợp do thiếu hiểu biết pháp luật dẫn tới phá sản. Xác định được điều này, Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) và Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (TC DN&TTVN) giao Trung tâm tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) thường xuyên tổ chức tham vấn pháp lý với mục đích giúp các doanh nghiệp phòng ngừa các rủi ro từ xa chứ không phải chi khi xảy ra vụ việc mới tìm hướng giải quyết.
Cụ thể, sáng ngày 02/06/2025, tại số 414, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp.HCM, Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã tổ chức buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp đồng hành, các doanh nghiệp thành viên không chỉ tham gia góp ý xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật mà còn tích cực hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp…
Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn không chỉ tạo sự kết nối giữa các doanh nghiệp mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho Doanh nghiệp về pháp luật, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước và cơ quan quản lý liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh để doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng…
Qua đó, Trung tâm đặc biệt tập trung cung cấp dịch vụ về thành lập, tái cấu trúc Doanh nghiệp; Liên kết, phối hợp với các cơ sở có chức năng để tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng theo nhu cầu của Doanh nghiệp. Đây là hoạt động thiết thực của Viện IMRIC; Viện IRLIE và TC DN&TTVN để góp phần nâng cao kiến thức pháp luật và chấp hành pháp luật của người dân, doanh nghiệp. Các luật gia, luật sư, các tư vấn viên pháp luật tham gia vào các quan hệ này để hỗ trợ pháp lý như tạo thêm sức mạnh, sự hiểu biết để việc giải quyết các vướng mắc đó được thực hiện hiệu quả, thực tế…
Ngay sau buổi tham vấn pháp lý, Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) xin trích dẫn hai tình huống đã tham vấn pháp luật như sau:
Tình huống thứ nhất: Muốn ly hôn nhưng chồng không chịu ký đơn, vợ phải làm sao?
Doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Doanh nghiệp IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Tôi kết hôn cách đây 10 năm. Gần đây, chồng tôi thường say xỉn, đánh đập vợ con, không lo làm ăn. Tôi không chịu nổi nữa, muốn ly hôn. Nhưng khi tôi đề cập thì anh ta mắng chửi, nói không ký đơn. Tôi nghe nói ly hôn cần có chữ ký của cả hai vợ chồng. Vậy tôi phải làm thế nào?.
Thứ nhất: Ly hôn không cần sự đồng ý của cả hai
Đây là điều quan trọng mà nhiều phụ nữ chưa hiểu biết đầy đủ. Bạn hoàn toàn có quyền đơn phương ly hôn – không cần chồng phải đồng ý hay ký vào đơn.
Căn cứ theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, nếu cuộc sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể kéo dài, thì một bên vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn. Vậy thế nào là “tình trạng trầm trọng”. Tòa án sẽ xem xét các yếu tố như: Bị bạo lực gia đình (đánh đập, xúc phạm danh dự, kiểm soát gắt gao…). Vợ chồng không còn chung sống, không quan tâm, không còn tình cảm. Một bên không thực hiện nghĩa vụ gia đình: không nuôi con, không đóng góp kinh tế, bỏ mặc trách nhiệm… Nếu hôn nhân có một hoặc một số những biểu hiện trên đồng nghĩa với tình cảm hai bên đã không còn, mục đích hôn nhân cũng không đạt được.
Qua trường hợp quý doanh nghiệp nêu, nếu chồng say xỉn, bạo lực, vô trách nhiệm, thì hoàn toàn có thể nộp đơn xin ly hôn đơn phương.
Thứ hai: Các bước thực hiện đơn phương ly hôn
Có 03 bước cần chuẩn bị cụ thể: Chuẩn bị hồ sơ gồm đơn xin ly hôn đơn phương (mẫu có tại tòa án hoặc do luật sư, chuyên gia pháp lý hỗ trợ), Bản sao giấy đăng ký kết hôn (nếu có), Bản sao CCCD, Giấy khai sinh của con (nếu có con chung), Tài liệu chứng minh bạo lực (nếu có): hình ảnh, đơn trình báo, xác nhận y tế…; Nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn cư trú hoặc nơi bạn cư trú nếu không còn sống cùng; Tòa án thụ lý vụ việc, gọi hai bên làm việc, lấy lời khai. Nếu chồng bạn không hợp tác, không ra tòa, tòa vẫn có thể xử vắng mặt và nếu đủ căn cứ sẽ ra quyết định ly hôn.
Thứ ba: Nếu chồng đe dọa, gây khó dễ thì sao?
Hãy báo ngay cho công an xã, Hội Phụ nữ địa phương. Có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ khẩn cấp nếu bạn và con có nguy cơ bị bạo hành. Nhờ Hội Phụ nữ xã, tổ chức trợ giúp pháp lý hỗ trợ trong suốt quá trình làm đơn.
Có thể khẳng định, dù quý doanh nghiệp là ai, sống ở đâu, thuộc dân tộc nào, tất cả đều có quyền chấm dứt cuộc hôn nhân không hạnh phúc – kể cả khi chồng không đồng ý. Khuyến nghị, cần mạnh dạn tìm đến Hội Liên hiệp Phụ nữ địa phương, trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước để được hướng dẫn cụ thể, miễn phí, bảo vệ quyền lợi chính đáng.
Tình huống thứ hai: Sống chung không đăng ký kết hôn, bố mẹ có được cho con đất
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực truyền thông thuộc CLB Báo chí và Pháp luật thuộc Viện IRLIE nêu câu hỏi: Bố mẹ tôi sống chung từ năm 1984 nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn, và đã tạo lập được một số tài sản chung. Tuy nhiên, bố mẹ hiện muốn cho tôi một mảnh đất (đứng tên cả hai người) thì cần thực hiện những thủ tục gì? Có được miễn thuế thu nhập cá nhân không?
Trong trường hợp này, bố mẹ chưa đăng ký kết hôn nhưng đã cùng tạo lập được tài sản chung (ví dụ như thửa đất) thì vẫn có quyền tặng cho quyền sử dụng đất cho con cái.
Căn cứ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành, không có quy định nào cấm việc tặng cho con cái tài sản chung giữa cha mẹ (chưa kết hôn). Việc tặng cho được căn cứ vào mối quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con.
Do đó, quý doanh nghiệp cần cung cấp các tài liệu chứng minh quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và mình như: giấy khai sinh, sổ hộ khẩu cũ (nếu sinh trước thời điểm Luật Cư trú năm 2020 có hiệu lực), giấy xác nhận thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú của cha mẹ và con, hoặc kết quả xét nghiệm ADN.
Mặt khác, quý doanh nghiệp cần cung cấp các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất trong thời gian bố mẹ chung sống, như: Giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất, giấy mua bán, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất…
Sau đó, lập hợp đồng tặng cho tài sản tại phòng công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực. Hợp đồng này phải thể hiện rõ sự đồng ý của cả hai bên bố và mẹ trong việc tặng cho con quyền sử dụng đất.
Căn cứ theo Điều 210 Bộ luật Dân sự 2015, họ vẫn có quan hệ sở hữu chung hợp nhất, nên cần sự thống nhất của cả hai.
Cùng với đó, quý doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ đăng ký đất đai tại văn phòng đăng ký đất đai cấp tỉnh hoặc quận/huyện, tùy thuộc vào từng trường hợp: Nếu thửa đất chưa có GCN quyền sử dụng đất thì đăng ký lần đầu theo Điều 132 Luật Đất đai 2024. Nếu đã có GCN thì đăng ký biến động theo Điều 133 Luật Đất đai 2024.
Kê khai và nộp các loại thuế, phí liên quan, bao gồm: Lệ phí trước bạ; lệ phí cấp GCN quyền sử dụng đất; phí thẩm định hồ sơ. Riêng về thuế thu nhập cá nhân, theo khoản 4, Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007, thu nhập từ quà tặng là bất động sản giữa cha mẹ và con ruột thuộc diện được miễn thuế.
Thế nhưng xin khuyến nghị thêm, dù bố mẹ anh Tùng sống chung từ năm 1984 mà không đăng ký kết hôn, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đang có hiệu lực tại thời điểm đó, thì không được coi là vợ chồng hợp pháp.
Mặc dù vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015: Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình. Vì vậy, con cái vẫn có quyền được nhận tài sản từ cha mẹ theo quy định của pháp luật.
Song song với đó, dù bố mẹ chưa đăng ký kết hôn nhưng đã cùng tạo lập tài sản chung thì vẫn có quyền tặng cho con tài sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất.
Trưởng Văn phòng giao dịch tại Phú Quốc, Bà Phạm Vũ Thiên Thi – Trung tâm TTLCC