Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM) đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý quan trọng cho việc giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tòa án. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, Điều 68 của LTTTM 2010 cho phép Tòa án xem xét và hủy phán quyết trọng tài (PQTT) trong một số trường hợp nhất định. Bài viết này sẽ phân tích chi tiết các căn cứ pháp lý là cơ sở để Tòa án hủy phán quyết trọng tài, đồng thời đưa ra các bình luận, đánh giá và đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Luật sư – Thạc sĩ: Lê Hồng Quang
- Đặt vấn đề
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp ngày càng phổ biến tại Việt Nam, được các bên ưu tiên nhờ vào tính nhanh gọn, bảo mật và tính chung thẩm của phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, không phải tất cả phán quyết trọng tài đều được công nhận và thi hành. Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại 2010[1] đưa ra các căn cứ để tòa án hủy phán quyết trọng tài nhằm đảm bảo rằng các phán quyết này được ban hành trên cơ sở hợp pháp, minh bạch và không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Tuy nhiên, một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thực tiễn áp dụng là thẩm quyền của Tòa án trong việc hủy phán quyết trọng tài theo Điều 68 của luật này. Quy định này được cụ thể hóa thêm bởi Điều 14 Nghị quyết số 01/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.[2]
Việc Tòa án hủy PQTT không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tranh chấp mà còn tác động đến uy tín và sức hấp dẫn của trọng tài thương mại tại Việt Nam. Vì vậy, cần một cái nhìn toàn diện về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng quy định này nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lực giám sát của Tòa án và tính độc lập của trọng tài.
- Nội dung nghiên cứu
Phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng của hội đồng trọng tài (HĐTT), giải quyết toàn bộ hoặc một phần nội dung tranh chấp giữa các bên. Theo Điều 61 LTTTM 2010, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và ràng buộc các bên, nghĩa là không có quyền kháng cáo hay xét lại nội dung tranh chấp tại tòa án. Phán quyết trọng tài quy định tại khoản 10 Điều 3 LTTTM bao gồm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên của Hội đồng trọng tài quy định tại Điều 58 Luật TTTM và phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài quy định tại Điều 60, Điều 61 Luật TTTM.
Phán quyết trọng tài là kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết tranh chấp trọng tài, mang tính ràng buộc pháp lý và có giá trị tương đương với bản án của Tòa án.
Theo quy định tại LTTM 2010, PQTT được coi là hợp pháp và có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện về thẩm quyền, thủ tục tố tụng và nội dung phù hợp với pháp luật [3]. Tuy nhiên, không phải tất cả PQTT đều được công nhận và thực thi. Trong một số trường hợp, khi PQTT vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc pháp lý hoặc không tuân thủ quy trình tố tụng, Tòa án có quyền can thiệp để hủy bỏ PQTT.
2.1 Các căn cứ huỷ phán quyết trọng tài
Điều 68, LTTTM 2010, quy định chi tiết các căn cứ để tòa án hủy phán quyết trọng tài, đây là hành vi của tòa án tuyên phán quyết trọng tài vô hiệu, tức không còn hiệu lực pháp lý. Những căn cứ này không chỉ nhằm bảo đảm tính hợp pháp, công bằng trong quá trình giải quyết tranh chấp mà còn góp phần duy trì sự cân bằng giữa quyền tự quyết của các bên và sự giám sát của tòa án. Các căn cứ để Toà án huỷ phán quyết trọng tài bao gồm:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Phán quyết trọng tài có thể bị hủy nếu thỏa thuận trọng tài giữa các bên bị tuyên bố vô hiệu theo Điều 18, LTTTM 2010. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu thường liên quan đến: Tranh chấp không thuộc phạm vi được giải quyết bằng trọng tài theo quy định của pháp luật; Thỏa thuận trọng tài không đáp ứng các điều kiện về hình thức (bằng văn bản, qua thư từ, điện báo hoặc hình thức khác được luật cho phép) [4]; Một bên trong thỏa thuận không có năng lực pháp luật hoặc năng lực hành vi dân sự tại thời điểm giao kết thỏa thuận.
Một PQTT chỉ có giá trị pháp lý khi xuất phát từ một thỏa thuận trọng tài hợp lệ. Nếu thỏa thuận trọng tài không tồn tại, vô hiệu hoặc không áp dụng được, PQTT bị coi là không có cơ sở pháp lý và có thể bị hủy bỏ. Các trường hợp phổ biến dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu gồm: Thỏa thuận vi phạm các quy định bắt buộc của pháp luật; Nội dung thỏa thuận không rõ ràng, dẫn đến việc không thể xác định ý chí của các bên; Một trong các bên ký kết thỏa thuận không có năng lực pháp luật hoặc năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, thành phần Hội đồng Trọng tài hoặc thủ tục tố tụng không đúng thỏa thuận của các bên
Thành phần Hội đồng Trọng tài không được thành lập theo đúng thỏa thuận của các bên hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc thủ tục tố tụng không được thực hiện đúng thỏa thuận hoặc trái với quy định của pháp luật. HĐTT cần được thành lập theo đúng thỏa thuận của các bên hoặc quy định của pháp luật. Bất kỳ sự vi phạm nào về thành phần HĐTT hoặc quy trình tố tụng đều có thể làm ảnh hưởng đến tính công bằng và khách quan của PQTT, ví dụ: HĐTT không đủ số lượng hoặc có thành viên không đáp ứng tiêu chuẩn độc lập và khách quan hoặc quá trình tố tụng không được thực hiện theo đúng trình tự, thời hạn hoặc nguyên tắc do LTTM 2010 quy định.
Theo NQ 01/2014: “Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định Luật TTTM” là trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định Luật TTTM về nội dung này mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM.
Thứ ba, vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài
Theo Điều 68, nếu HĐTT ra phán quyết về các vấn đề không thuộc phạm vi thỏa thuận trọng tài hoặc vượt quá thẩm quyền được giao, PQTT có thể bị hủy. “Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài” là trường hợp Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật TTTM; hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu Trọng tài giải quyết hoặc giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận đưa ra Trọng tài giải quyết.
Về nguyên tắc, Tòa án chỉ hủy phần quyết định có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà không hủy toàn bộ phán quyết trọng tài. Trường hợp có thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài, thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết không bị huỷ. Trường hợp không thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài, thì Tòa án hủy phán quyết trọng tài đó.
Thứ tư, chứng cứ do các bên cung cấp là giả mạo
Nếu một bên chứng minh được rằng chứng cứ sử dụng trong quá trình trọng tài là giả mạo và việc này ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung phán quyết, tòa án có thể hủy phán quyết đó.
Tòa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả mạo nếu có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết. Tòa án phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài, thỏa thuận của các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà Hội đồng trọng tài áp dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.
Thứ năm, trọng tài viên nhận hối lộ, có hành vi tiêu cực
Phán quyết trọng tài sẽ bị hủy nếu có bằng chứng cho thấy trọng tài viên nhận hối lộ, tham nhũng, hoặc có các hành vi tiêu cực khác trong quá trình giải quyết tranh chấp. Công bằng và khách quan là hai nguyên tắc cốt lõi trong quá trình giải quyết tranh chấp. Nếu có bằng chứng cho thấy HĐTT thiên vị hoặc có hành vi không phù hợp, làm mất đi yếu tố khách quan cần có của hội đồng trọng tài nên đã ra phán quyết bất lợi cho một bên thì Tòa án có thể can thiệp và hủy bỏ PQTT.
Thứ sáu, phán quyết trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Phán quyết trọng tài sẽ bị hủy nếu vi phạm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.” Tuy nhiên, LTTTM 2010 không định nghĩa rõ ràng khái niệm này, dẫn đến sự tùy nghi trong áp dụng. Theo NQ 01/2014 thì “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.
Theo khái niệm chung nhất, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam là những tư tưởng, quan điểm nền tảng được quy định trong Bộ luật Dân sự, làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng, áp dụng và giải thích các quy định liên quan đến quan hệ dân sự. Các nguyên tắc này phản ánh tính chất tự do, bình đẳng và tự nguyện trong các giao dịch dân sự, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia. Điển hình, pháp luật dân sự Việt Nam nhấn mạnh nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết và thỏa thuận, trong đó các bên có quyền quyết định các giao dịch của mình trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài ra, nguyên tắc bình đẳng thể hiện sự không phân biệt về địa vị, giới tính, dân tộc, hay tôn giáo giữa các chủ thể. Các nguyên tắc khác bao gồm tôn trọng quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tuân thủ pháp luật và đạo đức xã hội trong các quan hệ dân sự; và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những nguyên tắc này không chỉ tạo sự ổn định và công bằng trong các quan hệ dân sự mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo lợi ích cá nhân và lợi ích chung trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài.
Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.
2.2 Hậu quả của việc Tòa án hủy phán quyết trọng tài
Hậu quả của việc Tòa án hủy phán quyết trọng tài được quy định trong LTTTM 2010 và các văn bản pháp luật liên quan. Khi Tòa án ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các hậu quả pháp lý cụ thể bao gồm:
- Mất hiệu lực pháp lý của phán quyết trọng tài
Khi phán quyết trọng tài bị Tòa án hủy sẽ đẫn đến mất hiệu lực pháp lý. Điều này có nghĩa là phán quyết trọng tài không còn giá trị ràng buộc đối với các bên và không thể được thực thi. Phán quyết trọng tài, vốn có thể được thi hành tương tự như một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, sẽ không được cơ quan thi hành án dân sự công nhận và thực thi. Khi một phán quyết trọng tài bị hủy, các hệ quả pháp lý phát sinh bao gồm các bên không còn nghĩa vụ phải tuân thủ nội dung của phán quyết trọng tài và quyền thi hành phán quyết trọng tài của bên thắng kiện bị mất đi, bên thua kiện không còn trách nhiệm phải thực hiện các nghĩa vụ đã được phán quyết.
- Tranh chấp vẫn chưa được giải quyết dứt điểm
Khi phán quyết trọng tài bị Tòa án hủy, điều này đồng nghĩa với việc tranh chấp giữa các bên vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Khi phán quyết trọng tài bị hủy, các bên vẫn tồn tại mâu thuẫn hoặc yêu cầu về quyền lợi chưa được đáp ứng. Trạng thái pháp lý lúc này là tranh chấp quay lại điểm xuất phát ban đầu, giống như chưa từng được giải quyết. Các bên sẽ phải lựa chọn một trong hai hướng giải quyết lại vụ tranh chấp đó là khởi kiện ra Tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc là các bên có thể ký kết thỏa thuận trọng tài mới và đưa tranh chấp ra giải quyết lại tại trọng tài.
Nếu các bên không thoả thuận được về trọng tài mới thì một trong các bên có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp. Tòa án sẽ tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong thực tế thì khi đã có phán quyết trọng tài bị huỷ thì các bên khó có sự hợp tác và đồng thuận để thoả thuận lại trọng tài vì những có mâu thuẫn trước đó ảnh hưởng tới sự đồng thuận này.
- Phán quyết trọng tài bị huỷ sẽ gây tốn kém cho các bên
Trọng tài thường được xem là phương thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng hơn so với Tòa án. Tuy nhiên, khi phán quyết trọng tài bị hủy, thời gian xử lý tranh chấp kéo dài thêm, đôi khi lên đến nhiều năm nếu vụ việc phải qua nhiều cấp xét xử tại Tòa án. Trong thời gian này, các bên có thể chịu thiệt hại kinh tế do như mất cơ hội kinh doanh. Mất mát tài chính liên quan đến quyền lợi tranh chấp. Chi phí duy trì hoặc bảo vệ quyền lợi trong tranh chấp. Các chi phí phát sinh như các bên phải tiếp tục thuê luật sư để tham gia vào quá trình tố tụng mới. Nếu vụ việc chuyển sang Tòa án, các bên phải nộp án phí, trong khi tái lập thỏa thuận trọng tài sẽ phát sinh phí trọng tài mới. Chi phí cho nhân lực tham gia vào quá trình tố tụng, thậm chí trong thời gian kéo dài giải quyết tranh chấp, các bên không thể tập trung nguồn lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác. Điều này gây thiệt hại không nhỏ, đặc biệt trong trường hợp tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại lớn.
Các bên có thể chịu áp lực tài chính nếu phải duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác trong thời gian tranh chấp kéo dài. Việc tranh chấp kéo dài không chỉ gây tốn kém về tài chính mà còn làm ảnh hưởng đến quan hệ kinh doanh giữa các bên. Đối tác hoặc khách hàng có thể mất niềm tin vào khả năng hợp tác lâu dài, làm giảm giá trị chiến lược của mối quan hệ.
Khi phán quyết trọng tài bị Tòa án hủy, việc giải quyết tranh chấp trở nên phức tạp và kéo dài hơn, do đó, cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật và thủ tục trọng tài, nhằm tránh tình huống phán quyết bị hủy và hậu quả kéo theo. Đặc biệt, nếu vụ việc phải chuyển sang Tòa án hoặc trọng tài mới, các bên sẽ phải thực hiện lại toàn bộ hoặc một phần thủ tục tố tụng.
- Ảnh hưởng đến tính hiệu quả và uy tín của trọng tài
Khi phán quyết trọng tài bị Tòa án hủy, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính hiệu quả và uy tín của trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (ADR).
Một trong những ưu điểm lớn nhất của trọng tài là giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và có tính chung thẩm. Tuy nhiên, khi phán quyết trọng tài bị hủy, điều này khiến các bên cảm thấy trọng tài không đảm bảo được sự dứt điểm trong việc xử lý tranh chấp. Các bên tranh chấp, đặc biệt là doanh nghiệp, có thể nghi ngờ về khả năng công bằng và minh bạch của hội đồng trọng tài hoặc tổ chức trọng tài. Điều này làm giảm xu hướng sử dụng trọng tài trong tương lai. Nếu phán quyết bị hủy do lỗi của hội đồng trọng tài (ví dụ: sai phạm trong thủ tục tố tụng, xét xử ngoài thẩm quyền, hoặc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam), uy tín của các trọng tài viên sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Các tổ chức trọng tài cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp cũng bị ảnh hưởng về danh tiếng. Doanh nghiệp có thể e ngại sử dụng dịch vụ của các tổ chức này trong tương lai, đặc biệt là nếu các vụ hủy phán quyết diễn ra thường xuyên.
Nếu các phán quyết trọng tài thường xuyên bị hủy, doanh nghiệp có thể quay lại sử dụng Tòa án, vốn được coi là cơ chế truyền thống và đáng tin cậy hơn trong việc giải quyết tranh chấp. Điều này làm giảm vai trò của trọng tài trong hệ thống pháp lý. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế vươn ra toàn cầu như hiện nay, thì uy tín thấp của trọng tài tại Việt Nam có thể khiến các nhà đầu tư nước ngoài e ngại và chọn các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế (như trọng tài ICC, SIAC). Điều này làm giảm sự phát triển của trọng tài trong nước và gây tốn kém cho các bên tranh chấp. Khi phán quyết bị hủy, có thể khiến các bên nghi ngờ rằng việc chọn trọng tài là một quyết định sai lầm, làm giảm khả năng sử dụng trọng tài trong tương lai.
Trọng tài dựa trên sự tự nguyện của các bên. Tuy nhiên, việc phán quyết bị Tòa án hủy có thể bị hiểu rằng sự tự nguyện này không được pháp luật tôn trọng hoàn toàn, dẫn đến tâm lý lo ngại khi sử dụng trọng tài.
Việc hủy phán quyết trọng tài không chỉ ảnh hưởng đến các bên tranh chấp mà còn làm suy giảm tính hiệu quả và uy tín của trọng tài. Do đó, để duy trì trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, các tổ chức trọng tài và cơ quan quản lý cần nâng cao chất lượng, tuân thủ pháp luật chặt chẽ và đảm bảo sự công bằng trong mọi vụ việc.
- Những bất cập quy định về huỷ phán quyết trọng tài – Đề xuất, kiến nghị.
Quy định tại Điều 68, Luật Trọng tài thương mại 2010, về việc hủy phán quyết trọng tài là một cơ chế bảo vệ quan trọng nhằm đảm bảo tính hợp pháp, công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam. Các căn cứ như thỏa thuận trọng tài vô hiệu, vi phạm về thành phần hoặc thủ tục trọng tài, vượt quá thẩm quyền, sử dụng chứng cứ giả mạo, hoặc vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, phản ánh sự cân bằng giữa việc tôn trọng quyền tự quyết của các bên và đảm bảo lợi ích công cộng cũng như trật tự pháp lý.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này trong thực tiễn vẫn gặp nhiều thách thức. Một số khái niệm trong Điều 68, đặc biệt là khái niệm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” còn mang tính chung chung, dẫn đến sự không thống nhất trong áp dụng. Ngoài ra, một số trường hợp lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài để trì hoãn thi hành phán quyết cũng gây ảnh hưởng đến hiệu quả và uy tín của phương thức trọng tài.
Xuất phát từ thực tế đó, các giải pháp nhằm khắc phục bao gồm:
Thứ nhất, luật pháp cần cụ thể hóa khái niệm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Hiện tại, thuật ngữ “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” chưa được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến sự tùy nghi trong áp dụng. do đó, cần thiết phải xây dựng một danh mục các nguyên tắc cơ bản có thể làm cơ sở để hủy phán quyết trọng tài, ví dụ như: quyền tự do hợp đồng, quyền bình đẳng trước pháp luật, và nguyên tắc trung thực, thiện chí.[5]
Thứ hai, cần phải chi tiết hoá các yêu cầu về chứng cứ để tránh tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết, cần quy định rõ hơn về tài liệu, chứng cứ cần thiết khi nộp đơn yêu cầu.
Thứ ba, xác định rõ ràng nguyên tắc ưu tiên trọng tài, giảm sự can thiệp của Tòa án vào quyết định trọng tài, ngoại trừ các trường hợp thật sự cần thiết. Đẩy mạnh việc công nhận và thực thi phán quyết trọng tài quốc tế theo các tiêu chuẩn của Công ước New York 1958.[6]
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế giám sát và kiểm soát trọng tài bằng cách thiết lập cơ chế kiểm tra nội bộ Các trung tâm trọng tài cần có quy trình kiểm tra nội bộ nhằm phát hiện và khắc phục các sai sót trước khi phán quyết được ban hành.
Thứ năm, khuyến khích áp dụng pháp luật quốc tế và thông lệ tốt, học hỏi từ các quốc gia có hệ thống trọng tài phát triển, như Singapore hoặc Anh, để áp dụng các thực tiễn pháp lý tốt nhất. Khuyến khích sử dụng các nguyên tắc quốc tế trong giải quyết tranh chấp, đồng thời thống nhất với pháp luật Việt Nam.
- Kết luận
Việc hủy PQTT là một công cụ quan trọng để bảo vệ tính công bằng và minh bạch trong giải quyết tranh chấp thương mại. LTTM 2010 đã cung cấp khung pháp lý cơ bản nhưng cần được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc cân bằng giữa quyền giám sát của Tòa án và tính độc lập của trọng tài là yếu tố cốt lõi để xây dựng môi trường trọng tài thương mại ổn định và hiệu quả tại Việt Nam.
Để phát huy tối đa vai trò của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý liên quan. Điều này bao gồm việc cụ thể hóa các khái niệm pháp lý, nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp của trọng tài viên, đồng thời tăng cường hiệu quả giám sát của tòa án đối với quá trình thực hiện trọng tài [7]. Những cải cách này không chỉ góp phần bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên mà còn thúc đẩy môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định và đáng tin cậy tại Việt Nam”.
Việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến hủy phán quyết trọng tài không chỉ giúp bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả của hoạt động trọng tài mà còn củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào phương thức giải quyết tranh chấp này. Các kiến nghị trên đây kỳ vọng góp phần nâng cao chất lượng pháp luật trọng tài, hỗ trợ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tranh chấp trong một môi trường pháp lý công bằng và ổn định.
Luật sư, Quản Tài Viên: Thạc sĩ Lê Hồng Quang – Giám đốc Công ty luật Hà Phi; Thành viên Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE), Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC)