Mới đây, một số người dân đến Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) và Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) yêu cầu tham vấn pháp lý liên quan đến Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Đất đai 2024…
Nêu lại câu hỏi của người dân: Trước khi ba tôi mất, đã tặng hết tài sản của mình cho mẹ tôi. Xin cho biết, mẹ tôi có phải chia di sản thừa kế phần tài sản bố tôi đã tặng cho mẹ tôi trước khi mất không?. Trường hợp nào không được hưởng thừa kế đất đai hiện nay?
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Phạm Lan Thảo – Phó giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) trả lời như sau:
Tài sản được cho tặng trước khi chết có bị chia thừa kế hay không?
Việc ba tặng cho người mẹ toàn bộ tài sản trước khi mất là hành vi hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Người mẹ có quyền sở hữu những tài sản này theo Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”.
Căn cứ theo quy định tại Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của ngườichết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác” thì những tài sản của bố bạn trước khi mất đã tặng cho mẹ bạn không phải là di sản. Do đó, mẹ bạn không có nghĩa vụ phải chia tài sản mà bố của bạn đã tặng mẹ của bạn trước khi mất cho ông, bà nội của bạn.
Đối với trường hợp chứng minh được việc bố bạn tặng cho mẹ bạn toàn bộ tài sản của mình là không hợp pháp (có thể là bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép…) thì phần tài sản thuộc sở hữu của bố bạn được xác định là di sản theo quy định tại Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Do vậy, phần tài sản thuộc sở hữu của bố bạn (được xác định khi tặng cho mẹ bạn là không hợp pháp) sẽ phải chia theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể:
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Những trường hợp không được hưởng thừa kế nhà đất?
Căn cứ theo quy định tại Bộ luật Dân sự, thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản thừa kế của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Thừa kế theo di chúc được quy định tại chương XXII của Bộ luật dân sự năm 2015. Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản thừa kế của người đã chết cho người sống theo quy định của pháp luật nếu người chết không để lại di chúc hoặc để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Thừa kế theo pháp luật được quy định tại chương XXIII của Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai 2024, người sử dụng đất được thực hiện quyền thừa kế bằng quyền sử dụng đất khi có đủ các điều kiện sau đây: Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Trong đó, trừ trường hợp thừa kế quyền sử dụng đất, chuyển đổi đất nông nghiệp khi dồn điền, đổi thửa, tặng cho quyền sử dụng đất cho Nhà nước, cộng đồng dân cư và trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 124 và điểm a khoản 4 Điều 127 Luật Đất đai 2024; Đất không có tranh chấp hoặc tranh chấp đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật; Quyền sử dụng đất không bị kê biên, áp dụng biện pháp khác để bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự; Trong thời hạn sử dụng đất; Quyền sử dụng đất không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
Các quy định về thừa kế di sản hiện được điều chỉnh theo Bộ Luật dân sự 2015. Đối với đất đai, nhà ở (gọi chung là bất động sản) được xem là di sản của người đã mất (theo Điều 105 và Điều 612 Bộ Luật dân sự 2015).
Tại Điều 621 Bộ Luật dân sự 2015 đã quy định những người sau đây sẽ không được quyền hưởng di sản, bao gồm đất đai, nhà đất như sau: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Thếnhưng, những người này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc; Con đã thành niên có khả năng lao động và toàn bộ di sản được thừa kế theo di chúc hợp pháp nhưng không cho người con đó hưởng thừa kế.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động”.
Từ quy định trên, nếu con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) có khả năng lao động không được hưởng di sản sản thừa kế khi: Người lập di chúc không cho người đó hưởng thừa kế theo di chúc. Toàn bộ di sản là quyền sử dụng đất, nhà ở được thừa kế theo di chúc hợp pháp.
Nguyễn Văn Dũng (TVVPL Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn)