Tại buổi tham vấn pháp luật miễn phí dành cho các doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) và Câu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) vào sáng ngày 03/11/2025, tại số 44/67, phố Cảm Hội, phường Dống Mác, quận Hai Bà Trưng (cũ), Thành phố Hà Nội. Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) tổ chức buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến. Vớiviệc trợ giúp pháp lý là một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước dành cho những người không có khả năng sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí, theo đó người nghèo, người yếu thế trong xã hội được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) luôn xem công tác trợ giúp pháp lý góp phần giúp người dân giảm nghèo về pháp luật, do đó, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2017 đều xác định người nghèo là nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên trong các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý…
Đồng thời, truyền tải nội dung trên các trang tin điện tử, mạng xã hội, tạp chí in như: www.huongnghiepthitruong.vn (Viện IMRIC); www.chinhsachphapluat.vn (Viện IRLIE); www.tuvanphapluatvietnam.vn (Trung tâm TVPLMS); www.thamvanphapluat.vn (Trung tâm TTLCC); www.nghiencuupldautu.vn và www.phattrienspcongnghe.vn (Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam “AVRCIPL”); www.bestlife.net.vn; www.doanhnghiepnongnghiep.vn (liên kết Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam); www.vanhoacongdong.vn (Hiệp hội Phát triển Văn hoá cộng đồng Việt Nam)…
Như vậy, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương, Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn về công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế được triển khai đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc và được thực hiện thường xuyên, trong đó chú trọng các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người yếu thế như: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở; nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý…
Cùng với đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý được Viện IMRIC; Viện IRLIE; Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn tuyên truyền về các vụ việc trợ giúp pháp lý, với mong muốn ngày càng được nâng cao, nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân…Đặc biệt, trongsuốt thời gian qua trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo việc xét xử vụ việc khách quan, đúng người, đúng tội, tránh được oan sai cho người dân cũng như đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý đã giúp người dân sử dụng pháp luật khi có tranh chấp, vướng mắc, giúp người dân “giảm nghèo về pháp luật”, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, người dân yên tâm lao động để giảm nghèo về kinh tế…
Tại buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí lần này, các luật gia, luật sư, tư vấn viên, cộng tác viên tư vấn pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) đã tham vấn về hai trường hợp cụ thể như sau:
Thứ nhất: Việt kiều nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được không?
Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi, trong trường hợp của tôi có được phép nhận con nuôi tại Việt Nam không? Nếu được thì cần đáp ứng những điều kiện và thủ tục gì theo quy định pháp luật?

Việt kiều có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nếu đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định.Từ thực tế, thuật ngữ “Việt kiều” thường được dùng để chỉ người có gốc Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, không phân định việc còn giữ hay đã thôi quốc tịch Việt Nam.
Căn cứ vào khoản 3, khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2025: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài; Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Vì vậy, có thể xác định “Việt kiều” được xem là Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nếu đáp ứng đủ hai nhóm điều kiện: Điều kiện theo pháp luật của nước nơi họ đang thường trú; Các điều kiện được quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, cụ thể:
Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt.
Những người sau đây không được nhận con nuôi: Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù; chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định như: Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
Căn cứ khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 – trường hợp Người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn nhận con nuôi đích danh thì phải thuộc một trong các trường hợp: Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm.
Thứ hai: Kiều bào có được nhận thừa kế đất và nhà ở tại Việt Nam?

Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE nêu băn khoăn việc Việt kiều ở nước ngoài có được hưởng thừa kế tại Việt Nam hay không?
Điển hình, các cơ sở pháp lý để xác định rõ người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận thừa kế những loại đất và nhà ở nào, cùng với những điều kiện cụ thể về quốc tịch…; qua đó giúp họ hiểu rõ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Căn cứ vào khoản 3, khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài; người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
Tại khoản 3 và khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai 2024 thì người sử dụng đất bao gồm: Cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam (sau đây gọi là cá nhân); người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Căn cứ theo Luật Quốc tịch Việt Nam và Luật Đất đai 2024, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (tạm gọi chung là kiều bào) được phân thành hai nhóm chính, với quyền lợi về đất đai khác nhau.
Thứ nhất là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài (còn quốc tịch Việt Nam), tức họ là công dân Việt Nam nhưng cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Nhóm này được quyền đứng tên toàn bộ các loại đất và nhà ở mà cá nhân trong nước được phép thừa kế.
Họ được các quyền sử dụng đất tương đương cá nhân trong nước (khoản 3 Điều 4 Luật Đất đai 2024); được nhận thừa kế quyền sử dụng đất và có các quyền, nghĩa vụ tương đương cá nhân trong nước (điểm g khoản 1 Điều 28 Luật Đất đai 2024); được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.
Thứ nhì là người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài (đã mất quốc tịch Việt Nam) là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam theo nguyên tắc huyết thống và con cháu của họ, đang cư trú lâu dài ở nước ngoài. Nhóm kiều bào này cần thỏa mãn điều kiện về nhập cảnh và sở hữu nhà ở mới được đứng tên quyền sử dụng đất ở hoặc đất khác đi kèm nhà ở (khoản 1 Điều 44 và điểm h Khoản 1 Điều 28 Luật Đất đai 2024).
Nếu không đủ điều kiện, họ chỉ được nhận tiền (giá trị) của phần thừa kế, không được đứng tên quyền sử dụng đất (điểm đ khoản 1 Điều 37 Luật Đất đai 2024).
Nếu thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở (thường là có Giấy xác nhận gốc Việt Nam và được phép nhập cảnh vào Việt Nam) thì họ được nhận thừa kế quyền sử dụng đất ở (đất thổ cư), được nhận thừa kế các loại đất khác (như đất nông nghiệp) trong cùng thửa đất có nhà ở, được hưởng giá trị đối với các loại đất khác không nằm trong thửa đất có nhà ở.
Trường hợp nào kiều bào được đứng tên trên sổ hồng?
Luật Đất đai 2024 và Luật Nhà ở 2023, việc kiều bào có được trực tiếp đứng tên trên Giấy chứng nhận (sổ hồng) hay không sẽ phụ thuộc vào việc họ có thuộc đối tượng được phép sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất tại Việt Nam hay không?.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận thừa kế và đứng tên trên sổ hồng nếu họ thuộc một trong các trường hợp sau: Với người còn quốc tịch Việt Nam thì chỉ cần là công dân Việt Nam (cư trú ở nước ngoài) thì được hưởng đầy đủ quyền lợi về thừa kế nhà đất như công dân trong nước;Người gốc Việt Nam (đã mất quốc tịch Việt Nam) thì được phép nhận thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở gắn liền với nhà ở nếu được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
Những trường hợp khác thì chỉ được hưởng giá trị tài sản theo quy định. Nếu kiều bào không thuộc các đối tượng nêu trên (ví dụ: người gốc Việt nhưng không được phép nhập cảnh vào Việt Nam, hoặc tài sản thừa kế là đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở) thì họ vẫn được hưởng thừa kế nhưng theo hình thức khác. Đó là họ không được cấp Giấy chứng nhận (không được đứng tên); mà thay vào đó, họ chỉ được hưởng giá trị của phần tài sản thừa kế đó.
Người nhận thừa kế phải thực hiện thủ tục chuyển nhượng (bán) hoặc tặng cho nhà đất đó cho người khác thuộc đối tượng được sở hữu nhà đất tại Việt Nam (chẳng hạn người thân ở trong nước) trong một thời hạn nhất định theo quy định.
Qua tham chiếu Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi năm 2019), người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhập cảnh khi có: Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế và thị thực hợp lệ, trừ trường hợp được miễn thị thực; Không thuộc các trường hợp bị từ chối nhập cảnh, như: giả mạo giấy tờ, mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, bị trục xuất hoặc buộc xuất cảnh chưa hết thời hạn, hay vì lý do quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội, thiên tai hoặc dịch bệnh.
Phó viện trưởng Thường trực Viện IRLIE Phạm Trắc Long – Giám đốc Trung tâm TVPLMS


















